Đại đoàn kết dân tộc - đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Triều đình phong kiến nhà Nguyễn đầu hàng (ký Hiệp ước Giáp Thân 1884), chấp nhận làm tay sai cho giặc. Từ đó, thực dân Pháp thi hành chính sách “chia để trị” hết sức thâm độc để phục vụ mục đích nô dịch thuộc địa và bóc lột lâu dài. Nhân dân sống trong cảnh “nước mất, nhà tan”, cuộc đời lầm than cơ cực. Dù những cuộc đấu tranh anh dũng của bao thế hệ người Việt vẫn liên tục diễn ra, tiêu biểu như phong trào Cần Vương (cuối thế kỷ XIX), khởi nghĩa nông dân (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX), phong trào dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản (đầu thế kỷ XX) nhưng đều bị kẻ thù “dìm trong biển máu”. Một trong những nguyên nhân căn bản nhất dẫn tới sự thất bại đó là các phong trào yêu nước chưa phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân do thiếu cơ sở lý luận, thiếu phương tiện và sách lược phù hợp.
Trải qua một quá trình tích cực vận động, ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp vô sản (công nhân) được thành lập (tháng 10/1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương), khẳng định con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là con đường kết hợp và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện mục tiêu chiến lược đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đại đoàn kết dân tộc rất đúng đắn, đó là: Đảng chủ trương tập hợp được đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được quần chúng, phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, xây dựng liên minh công nông vững chắc; đồng thời “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng... thì phải đánh đổ”.
Sau khi ra đời, căn cứ vào bối cảnh thế giới, tình hình trong nước ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, Đảng tiếp tục có sự chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược và sách lược nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì thế, ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh chính thức ra đời. Tháng 10/1941, Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ, khẳng định chủ trương “liên hiệp hết thảy các tầng lớp Nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở”.
Khẩu hiệu kêu gọi nhân dân tham gia mặt trận Việt Minh đánh đuổi Phát xít Nhật. Ảnh tư liệu
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết, tiến hành tổng khởi nghĩa thắng lợi
Đầu năm 1945, cục diện Chiến tranh thế giới thứ hai đang đi đến giai đoạn kết thúc. Chủ nghĩa phát xít đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Trong tình thế khó khăn đó, phát xít Nhật tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp (9/3/1945) để độc chiếm Đông Dương.
Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại Đình Bảng (Bắc Ninh), ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945), xác định rõ kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của Nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật. Hội nghị quyết định phát động một cao trào “Kháng Nhật cứu nước” mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
Ngày 13/8/1945, Chính phủ Nhật hoàng phải tuyên bố đầu hàng các nước Đồng minh không điều kiện. Quân đội Nhật chiếm đóng ở Đông Dương bị tê liệt, mất tinh thần chiến đấu, chính phủ tay sai bù nhìn hoang mang cực độ. Không khí cách mạng sục sôi trong cả nước. Theo sự thỏa thuận của các nước Đồng minh thắng trận, quân đội Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa dân quốc) sẽ tiến vào miền Bắc Việt Nam, quân đội Anh - Pháp sẽ vào miền Nam Việt Nam (lấy vĩ tuyến 16 phân chia) làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất đều muốn thực hiện ý định tiêu diệt lực lượng cách mạng và Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập chính quyền tay sai phục vụ mưu đồ cai trị.
Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc (từ 13 - 15/8/1945) họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), nhận định thời cơ đã đến, quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng minh vào. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc để kịp thời chỉ đạo thống nhất phong trào khởi nghĩa các địa phương. Ngay sau đó, ngày 16/8/1945, Đại hội quốc dân cũng họp ở Tân Trào, bao gồm đại biểu của ba xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) đại diện cho các giới, các đoàn thể, các dân tộc, tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng toàn dân. Đại hội nhất trí tán thành quyết định tổng khởi nghĩa, bầu Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, thông qua một số chính sách quan trọng của Mặt trận Việt Minh.
Hưởng ứng lệnh Tổng khởi nghĩa, Nhân dân cả nước với khí thế sục sôi đồng loạt nổi dậy giành chính quyền. Ngày 19/8/1945, Tổng khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23/8, Thừa Thiên - Huế giành được chính quyền. Ngày 25/8, Nhân dân Sài Gòn - Gia Định giành được chính quyền... Sức mạnh vùng dậy "long trời, lở đất” của hàng triệu quần chúng, tạo nên một ưu thế áp đảo, giáng đòn quyết định vào tất cả cơ quan đầu não của chính quyền bù nhìn, khiến chúng không kịp trở tay.
Ngày 19/8/1945 nhân dân Hà Nội giành chính quyền tại phủ Bắc Bộ. Ảnh tư liệu
Ngày 25/8/1945 nhân dân Sài Gòn giành chính quyền. Ảnh tư liệu
Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Cách mạng Tháng Tám đã thành công rực rỡ trong cả nước vào ngày 28/8/1945. Ngày 30/8/1945, Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều Nguyễn tuyên bố thoái vị, trao ấn vàng, kiếm nạm ngọc lại cho đại diện Việt Minh. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chính quyền cả nước thuộc về tay Nhân dân. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 thực sự là biểu tượng cho sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Sức mạnh đó trước hết bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước nồng nàn của mỗi con dân đất Việt, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử, tiếp tục được nhân lên và phát huy cao độ bởi đường lối cách mạng khoa học, đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Gần 80 năm đã trôi qua, song cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 vẫn vẹn nguyên tầm vóc và giá trị lịch sử, là niềm tự hào thôi thúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.