Chúng tôi vừa qua cầu Bến Thuỷ, lúc này trời vẫn nắng gay gắt, cái nắng tháng 7 như đổ lửa làm cho người ta ngột ngạt đến khó thở. Lần này chúng tôi đến Khu tưởng niệm Thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc, địa danh anh hùng mà nhiều lần qua miền Trung tôi chưa được ghé thăm, tôi mới chỉ được nghe và đọc qua sách báo.

Tôi nhớ thời đi học có đọc bài "Gửi em, cô thanh niên xung phong" của nhà thơ thời chống Mỹ Phạm Tiến Duật, nhà thơ của Bộ đội Trường Sơn, tôi nhớ mấy câu sau đây: Có lẽ nào anh lại mê em/ Một cô gái chưa nhìn rõ mặt/ Đại đội thanh niên xung phong/ Áo em hình như trắng nhất… … Cạnh giếng nước có bom từ trường/ Em không rửa ngủ ngày chân lấm/ Ngày em phá nhiều bom nổ chậm/ Đêm nằm mơ nói vớ vang nhà/ Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa/ Thương em, thương em, thương em biết mấy…
Chỉ còn mấy cây số nữa là chúng tôi đến Ngã ba Đồng Lộc, Ngã ba anh hùng, Ngã ba huyền thoại, Ngã ba của 10 cô gái thanh niên xung phong anh hùng thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước đã hy sinh anh dũng trên con đường huyết mạch vận chuyển từ Bắc vào Nam. Các cô hy sinh khi còn rất trẻ, người lớn nhất 22, người nhỏ nhất 17 tuổi. Ngã ba Đồng Lộc nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh xuyên qua dãy núi Trường Sơn thuộc tỉnh Hà Tĩnh, là giao điểm của quốc lộ 15A và tỉnh lộ 2 của Hà Tĩnh, thuộc địa phận xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc. Từ tháng 4 năm 1965 khi quốc lộ 1A đoạn qua Nghệ An - Hà Tĩnh bị địch cắt đứt thì Ngã ba Đồng Lộc được coi như là cổ họng của tuyến đường Bắc - Nam, con đường có tầm chiến lược quan trọng đặc biệt nên trong chiến tranh phá hoại, giặc Mỹ âm mưu ném bom huỷ diệt, nhằm chặn đứt sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Ngã ba Đồng Lộc nằm gọn trong một thung lũng hình tam giác, hai bên đồi núi trọc, giữa là con đường độc đạo, mặt đường giống như một lòng máng, bom địch thả xuống bên nào đất đá cũng lăn xuống đường làm tắc nghẽn giao thông. Không biết bao nhiêu bom đạn đã trút xuống đây.Chỉ tính từ tháng 3 đến tháng 10/1968 không quân địch đã trút xuống đây 42.900 quả bom phá, 12.000 quả bom từ trường, 96 bom bi..., tính bình quân 1m2 phải hứng chịu 3 quả bom tấn.
Những ngày tháng 7 này rất nhiều người đã đến đây. Đến trước chúng tôi là các đoàn cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, các nhà doanh nghiệp, học sinh, sinh viên, các em thiếu nhi, có cả các đoàn khách du lịch. Tất cả đều thành kính, xúc động lắng nghe giới thiệu về sự tích của 10 cô gái anh hùng. Anh cán bộ bảo tàng mặc một bộ quần áo của lực lượng thanh niên xung phong thời đó, với chất giọng trầm ấm, nhỏ nhẻ, khẽ khàng như vọng về từ một cõi rất xa dẫn chúng tôi trở về 40 năm trước: Bên địch quyết phá thì bên ta quyết giữ, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực để giữ bằng được con đường này. Vào lúc cao điểm nhất, chỉ tại ngã ba này thôi đã tập trung 16 ngàn người, phần lớn là bộ đội pháo binh và lực lượng thanh niên xung phong . Trong đó có tiểu đội 4, thuộc đại đội 552 thanh niên xung phong do Võ thị Tần làm Tiểu đội trưởng, Hồ Thị Cúc làm Tiểu đội phó, họ được lệnh chốt chặn đoạn 300 mét từ Cầu Tối đến Trường Thành, đây là trọng điểm địch đánh phá ác liệt nhất, đoạn 300m này bấy giờ mưa xuống chỉ còn là đống bùn nhão. Tiểu đội 4 có nhiệm vụ san lập hố bom sửa chữa đường, kết hợp sửa chữa hầm trú ẩn khơi sâu rãnh thoát nước ở đoạn đường độc đạo để nhanh chóng thông đường cho xe qua trong thời gian suốt gần ba tháng trời từ 1-4-1968 đến 23-7-1968 cả tiểu đội vẫn an toàn.
Thế mà ngày 24-7-1968, cái thời khắc bi hùng ấy đã đến với Tiểu đội 4 của Tần và Cúc gồm 10 cô gái trẻ: 1.Võ thị Tần - 22 tuổi - Tiểu đội trưởng 2.Hồ Thị Cúc - 21 tuổi - tTểu đội phó 3.Võ Thị Hợi - 20 tuổi - Chiến sĩ 4.Nguyễn Thị Xuân - 20 tuổi - Chiến sĩ 5.Dương Thị Xuân - 19 tuổi - Chiến sĩ 6.Trần Thị Rạng - 19 tuổi - Chiến sĩ 7.Hà Thị Xanh - 18 tuổi - Chiến sĩ 8.Nguyễn Thị Nhỏ - 19 tuổi - Chiến sĩ 9.Võ Thị Hạ - 19 tuổi - Chiến sĩ 10.Trần Thị Hường - 17 tuổi - Chiến sĩ khi được phân công đi đào công sự và hố hầm chữ A tại eo núi Trọ Voi cách trọng điểm cũ khoảng 300m. Từ trưa, địch chỉ tập trung đánh ở toạ độ lửa ngoài Trường Thành. Đến khoảng 16h cùng ngày 24-7 thì tốp cuối cùng 3 chiếc máy bay phản lực tiêm kích rút ra biển. Bất ngờ một chiếc quay lại trút bom xuống đúng vị trí Tiểu đội 4. Một quả bom tấn dội đúng hầm của 10 cô ẩn nấp. Khi tan khói bom, trên đài quan sát không thấy ai trong số mười cô rũ đất đứng dậy. Cả trận địa lặng đi rồi òa lên tiếng khóc nức nở của những người đồng đội. Các cô đã hy sinh rồi! Mọi người chạy lại tìm thì không thấy cô nào mà xẻng cuốc mũ nón còn nằm ngổn ngang bên miệng hố bom. Tất cả đông đội đổ dồn về đào bới. Sau hai tiếng thì tìm thấy 9 cô đã hy sinh nhưng thể xác vẫn còn nguyên như đang nằm ngủ. Cả 9 cô Tần, Nhỏ, Nguyễn thị Xuân, Dương Thị Xuân, Hà, Hường, Hợi, Xanh và Rạng đều ẩn nấp ở cái hào dài vừa đào xong. Riêng Hồ Thị Cúc (Tiểu đội phó) vẫn chưa tìm thấy. Có người nghĩ là Cúc chạy xa lên núi nên vừa khóc, vừa gào, vừa đào, vừa gọi. Còn 9 cô lần lượt được đặt lên cáng thương khiêng về xếp một hàng ngang sau eo núi Bãi Địa. Quyết tâm bằng mọi giá phải tìm bằng được xác Cúc. Chiều ngày 25/7/1968 Ty Giao thông Hà Tĩnh điều máy xúc ra tham gia đào tìm. Nhưng sợ đào bằng máy sẽ nát thi thể của Cúc nên đơn vị và đồng đội quyết tâm không dùng máy mà tiếp tục đào bằng tay. Đến đêm 25/7/1968, vẫn còn một chiếc quan tài bỏ trống . Là một đồng đội của các cô lúc đó, nhà thơ Yến Thanh, trong nỗi xúc động, thương xót trào dâng bên cạnh chiếc quan tài không của Cúc đã viết bài thơ " Cúc ơi ! " : Tiểu đội đã xếp một hàng ngang/ Cúc ơi em ở đâu không về tập hợp?/ Chín bạn đã quây quần đủ hết/ Nhỏ-Xuân-Hà-Hường-Hợi-Rạng-Xuân- Xanh/ A trưởng Võ Thị Tần điểm danh/ Chỉ thiếu mình em/ (Chín bỏ làm mười răng được!)/ Bọn anh đã bới tìm vết cuốc/ Ðất sâu bao nhiêu bọn anh không cần/ Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng/ Cúc ơi! Em ở đâu?/ Ðất nâu lạnh lắm/ Da em xanh Áo em thì mỏng!/ Cúc ơi! Em ở đâu?/ Về với bọn anh tắm nước sông Ngàn Phố/ Ăn quýt đỏ Sơn Bằng Chăn trâu cắt cỏ/ Bài toán lớp Năm em còn chưa nhớ/ Gối còn thêu dở/ Cơm chiều chưa ăn/ Ở đâu hỡi Cúc Đồng đội tìm em/ Đũa găm, cơm úp Gọi em/ Gào em Khan cổ cả rồi Cúc ơi! Chúng tôi lặng đi, chỉ nghe tiếng thút thít nho nhỏ, tiếng vạt áo lau vội nước mắt, nước mắt cứ chảy xuống thấm vào đầu lưỡi mặn chát, yên lặng, tiếng anh cán bộ bảo tàng vẫn cứ như từ nơi đâu xa lắm vọng về: Suốt chiều 25/7, đêm 25/7 và tận trưa 26/7/1968 mới tìm thấy Cúc đang ngồi trong góc hầm, đầu đội nón, chiéc nón bị đất đá làm bẹp dí và vai Cúc còn dựa vào cán cuốc. Mười đầu ngón tay của Cúc nát bấy còn đọng máu khô. Chắc Cúc đã dùng hai tay cào bới để thoát khi biết mình đã bị vùi dưới hố bom sâu.
Chúng tôi đứng bên miệng hố bom nơi các chị đã hy sinh nằm bên trái Đài tưởng niệm và Khu mộ của các chị. Một vài người thắp hương bên hố bom. Có ba, bốn con bướm trắng bay từ rặng cây um tùm trên hố bom bay lên phía núi nơi có 10 ngôi mộ của các chị. Trời vẫn nắng chang chang, dòng người lặng lẽ, thành kính đi dần lên Đài tưởng niệm và Khu mộ. Người ta mang theo rất nhiều thứ đặt lên bàn thờ các chị. Các bà các chị mang cả gương lược, bồ kết, cao sao vàng, có cả những chiếc lược bí mà đã lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy vì hiện nay không còn ai dùng nữa. Sau khi làm lễ mặc niệm trước Đài tưởng niệm và bàn thờ các chị, chúng tôi đặt hoa ở mộ các chị ở phía sau.
Anh cán bộ bảo tàng lại kể những câu chuyện về các chị: Chị Nguyễn thị Tần Tiểu đội trưởng, có người yêu là anh Nguyễn Văn Hồng. Năm 1964, anh Hồng vào chiến trường Miền Nam chiến đấu. Khi chia tay chị Tần cắt một lọn tóc của mình tết thành con số 8 trao cho anh Hồng, chị nói : Anh đi chiến đấu, em sẽ đợi, sau ngày chiến thắng chúng ta sẽ nên duyên vợ chồng. Hết chiến tranh, anh Hồng về, chị Tần đã hy sinh .Giữ lọn tóc của người yêu, anh Hồng coi bố mẹ chị Tần như bố mẹ vợ. Mọi công việc nặng nhọc của gia đình chị Tần đều do anh Hồng gánh vác, mãi anh Hồng cũng chưa lấy vợ. Sau này, khi bố mẹ chị Tần khuyên can và đích thân ông bà đi hỏi cho anh, anh mới chịu lấy vơ. Hiện nay vợ chồng anh vẫn có bàn thờ chị Tần trong nhà mình. Tôi cũng được biết cũng mới đây thôi, sau nhiều lần vận động của Lãnh đạo Bảo tàng Ngã ba Đồng Lộc, anh Hồng đã tặng lại lọn tóc của chị Tần cho Bảo tàng. Bảo tàng cũng mới nhận lại chiếc áo của chị Cúc Tiểu đôi phó do gia đình trao tặng. Một chiếc áo vàng ố, nhăn nheo, có nhiều mảnh vá, dấu tích của những năm tháng khó khăn, gian khổ đầy hy sinh mất mát nhưng cũng rất hào hùng của cả một dân tộc. Đây là một trong những kỷ vật vô giá của 10 cô gái thanh niên xung phong anh hùng mà Bảo tàng đang cất công sưu tập. Bao nhiêu lời khẩn cầu thành kính, bao nhiêu cặp mắt ngưỡng vọng nhìn lên cao xanh, bao nhiêu lời thầm thì từ trong trái tim mình của biết bao người, thuộc nhiều thế hệ hôm nay các chị có nghe thấy không !
Tôi mượn lời bài thơ "Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc" của nhà thơ Vương Trọng viết năm 1995 để kết thúc bài viết này, đúng ngày 27/7/2008 - ngày thương binh liệt sĩ - có lẽ cũng là lời của các chị - lời của những người anh hùng bất tử linh thiêng từ trên cao xanh vẳng xuống: Mười bát nhang cắm thế đủ rồi/ Còn hương nữa hãy dành cho người khác/ Ngã xuống nơi này đâu chỉ có chúng tôi/ Bao xương máu mới làm nên Đồng Lộc/ Lòng tưởng nhớ xin chia đều khắp/ Như nắng trong thung như cỏ trên đồi!/ Hoa cỏ may khâu nặng ống quần, kìa!/ Ơi các em cổ quàng khăn đỏ/ Bên bia mộ, xếp hàng nghiêm trang thế/ Thương các chị lắm phải không?/ Thì hãy quay về/ Tìm cây non trồng lên đồi Trọ Voi và bao vùng đất khác/ Các chị còn khao khát bóng cây che!/ - Hai bảy năm trôi qua, chúng tôi không thêm một tuổi nào/ Ba lần chuyển chỗ nằm, lại trở về Đồng Lộc/ Thương nhớ chúng tôi, các bạn ơi, đừng khóc/ Về bón chăm cho lúa được mùa hơn/ Bữa ăn cuối cùng mười chị em không có gạo/ Nắm mì luộc chia nhau rồi vác cuốc ra đường!/ - Cần gì ư? lời ai hỏi trong chiều/ Chúng tôi chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu/ Ngày bom vùi tóc tai bết đất/ Nằm trong mộ rồi mái đầu chưa gội được/ Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang/ Cho mọc lên vài cây bồ kết/ Hương chia đều trong hư ảo khói nhang..
Khu rừng nơi các chị yên nghỉ hiện đã có hai cây bồ kết do một người đồng đội đem về đây trồng. Mười ngôi mộ trắng, mười vòng hoa trắng với khói hương và lòng thành kính của những người đến viếng. Mười cô gái đồng trinh, mười người con gái anh hùng, linh thiêng đã đi vào huyền thoại. Một nén hương tưởng nhớ, kính dâng lên các chị.
Nguyễn Ngọc Sơn
(Nguyên Phó VP Thành ủy Hải Phòng)