Bà Nguyễn Thị Bình tên thật là Nguyễn Thị Châu Sa, sinh năm 1927 trong một gia đình có 6 anh chị em, nguyên quán ở Gò Nổi, Điện Bàn, Quảng Nam. Cha bà là ông Nguyễn Đồng Hợi, mẹ là bà Phan Thị Châu Lan – con gái thứ hai của nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh, ông nội bà là nghĩa binh trong phong trào Cần Vương, chiến đấu và hy sinh tại quê nhà.
Người ta vẫn hay nói, người xứ Quảng đa phần là người cương trực, khí phách, không dễ bị khuất phục. Người Quảng có cái tật “hay cãi” và cũng thường “tham việc công”, nghĩa là có trách nhiệm với đất nước, cộng đồng, sẵn sàng gánh vác và dấn thân. Con người đó cũng lại là con người rất nghĩa tình và cởi mở, nhạy cảm với cái mới.
Với ai là người xứ Quảng thì không biết nhưng với Nguyễn Thị Bình, những lời “thánh phán” ấy tựa như bức tranh ký họa phác thảo sẵn tính cách, sự nghiệp và cuộc sống của bà cho đến tận bây giờ.
Do cha bà từng làm tham tá công chánh thời Pháp thuộc, làm công tác họa đồ nên thuở nhỏ gia đình bà cư trú tại Phnôm Pênh, Campuchia, do đó bà được cho ăn học ở một trường nổi tiếng ở Đông Dương thời bấy giờ tại Phnôm Pênh là trường Lycée Sisowath. Bà được học tiếng Pháp ở đây cho hết tú tài I, và học rất khá.
Năm 1944, mẹ bà qua đời lúc bà mới 17 tuổi, bà theo gia đình trở về nước và bắt đầu tham gia các hoạt động yêu nước trong phong trào sinh viên học sinh như cứu tế và cướp chính quyền tại Sài Gòn. Sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ cuối năm 1945, cha bà ra chiến khu theo lời kêu gọi của Ủy ban hành chánh kháng chiến Nam Bộ. Riêng bà ở lại để chăm sóc các em, vừa hoạt động bí mật cho phong trào Việt Minh khối sinh viên học sinh và phụ nữ yêu nước, vận động trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn.
Năm 1948, sau khi được kết nạp Đảng, bà được giao thêm nhiệm vụ vận động phụ nữ trí thức, tham gia các hoạt động hợp pháp tại thành phố, thành lập Hội phụ nữ cấp tiến.
Sau này, bà tham gia chỉ đạo các hoạt động công khai, hợp pháp tiêu biểu như cuộc chống địch giải tỏa xóm lao động Bàn Cờ, cuộc biểu tình để tang Trần Văn Ơn (ngày 9/1/1950), cuộc biểu tình phản đối tàu chiến Mỹ đến Sài Gòn. Trong các cuộc đấu tranh này, bà luôn là người có mặt ở tuyến đầu, nên đồng bào, đồng chí hoạt động nội thành thường gọi bà là “chuyên gia biểu tình”.
Tháng 4/1951, bà bị địch bắt giam tại Khám Lớn (Sài Gòn), với tội “cầm đầu gây rối, phản nghịch chống chính quyền”, sau đó bị chuyển về Khám Chí Hòa, giam gần 3 năm. Sau khi ra tù, bà tiếp tục hoạt động trong phong trào đấu tranh cho hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ tổ chức. Năm 1955, bà được điều ra Bắc tập kết và được đào tạo thêm theo chương trình bồi dưỡng cán bộ đặc biệt, công tác tại Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung ương.